Đặc điểm Lợn rừng châu Âu

Với tư cách là một phân loài chỉ định (Nominate subspecies) lợn rừng châu Âu đại diện cho những mô tả chung nhất về loài lợn rừng. Đây là một phân loài có kích thước cỡ vừa đến lớn, có bộ lông màu tối là chủ đạo pha lẫn với những bộ lông màu nâu đen, chúng có xương lệ đạo dài và tương đối hẹp. Ở miền Bắc Italy, một phân loài ảo du nhập S. s. scrofa đã phổ biến rộng rãi lai giống với các cá thể có kích thước nhỏ hơn bản địa S. s. majori kể từ những năm 1950.

Có những con lợn rừng có trọng lượng lớn, có thể đến 300 kg, chạy nhanh, bơi lội giỏi, dễ nuôi, ít bị bệnh. Chúng là giống vật du cư sống theo bầy đàn cùng bộ lông sọc vằn màu xám nâu đặc trưng. Lợn rừng ở Tây Ban NhaPháp có 36 cặp nhiễm sắc thể ngược lại với các loại lợn rừng của châu Âu có 38 cặp giống như lợn nhà. Hai loại lợn rừng có 36 và 38 cặp nhiễm sắc thể đó được giao phối tạo nên thế hệ con lai có nhiễm sắc thể là 37 và cũng có khả năng sinh sản.

Kích thước

Nhìn chung, lợn rừng châu Âu có tầm vóc khá hơn lợn rừng châu Á, có con nặng tới 200 – 300 kg, cao tới 90 – 100 cm, thân dài 150 – 160 cm. Có những con với tầm vóc dài đến 1,5m và nặng 300 kg, và cũng có hệ răng nanh rất phát triển giúp chúng kiếm ăn và phòng vệ. Lợn rừng châu Âu thường có tầm vóc to lớn hơn nhiều so với lợn rừng châu Á. Trong khi lợn rừng châu Á chỉ có thể cao 65–70 cm, dài 120–140 cm. nặng 70–150 kg, thì lợn rừng châu Âu có thể cao tới 90–100 cm, dài từ 150–160 cm, nặng tới 200–350 kg. Con đực thường to lớn hơn con cái khoảng từ 20–30 kg. Thậm chí giống lợn rừng đại hay lợn rừng thần thoại hay lợn rừng rậm lông xuất hiện ở các rừng thưa châu Âu có con những người thợ săn bắt được có trọng lượng khổng lồ 400–600 kg. Tuy nhiên, giống lợn khổng lồ này chưa thể thuần dưỡng được[2]. Về tổng thể, chúng có vóc dáng cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài và nhỏ, cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, răng nanh phát triển mạnh, da lông màu hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn[3]. Chúng nhảy cao tới hơn 1,8m, di chuyển với khoảng cách dài và chạy với vận tốc 30 km/h

Hình chụp tổng thể về một con lợn rừng châu Âu

Sinh trưởng

Vào mùa xuân, lợn rừng nái thường đẻ từ 10 đến 12 con. Lợn rừng thường có từ 8 – 10 vú, hiếm thấy có lợn trên 12 vú. Lợn rừng cái 6 – 7 tháng tuổi, quãng 20 –27 kg đã bắt đầ động dục. Động dục của lợn rừng cái thầm nặng hơn động dục của lợn nhà nên khó phát hiện. Chúng thường ít kêu rống, thích nằm một chỗ. Âm hộ sưng tấy màu đỏ trong 2 ngày đầu, rồi chuyển sang tím tái từ ngày thứ 3 và thứ 4. Quá trình động dục diễn ra 3 đến 4 ngày và nếu không được phối giống thì 20 – 22 ngày sau lại xuất hiện lần động dục mới. Hoạt động tình dục và sản xuất hormone testosterone ở lợn đực được kích thích (triggered) bởi độ dài của ngày (day length) và đạt mức cao nhất vào giữa mùa thu. Mùa giao phối các con đực sống độc thân sẽ gia nhập đàn lợn cái. Chúng sẽ đánh nhau để tranh giành quyền giao phối và con thắng sẽ chiếm hết các lần giao phối.

Gần tới ngày đẻ, lợn mang thai sẽ tự tìm hoặc tự tạo ra hang hốc và kiếm lá cây khô, cỏ khô để làm ổ đẻ. Các hang đất hoặc hố đất làm ổ đẻ thường là nơi kín đáo, tĩnh mịch, ấm áp và khô ráo. Đây là chỗ để chúng bảo vệ đàn con. Đất pha cát là thích hợp nhất để lợn mang thai đào dũi làm ổ đẻ. Chúng rất hung dữ khi nuôi con. Lợn mẹ không muốn con người và các động vật khác biết ổ đẻ của nó. Do sống hoang dã, mà lợn rừng có tốc độ lớn chậm, có khi 1 năm tuổi chúng mới chỉ nặng được 30 – 40 kg. Khi lợn đạt từ 30 kg/con trở lên, tốc độ lớn của lợn rừng càng chậm lại. Nhiều con lợn cái động dục và phối giống lần đầu lúc 7 – 8 tháng tuổi. Và chỉ nặng trên dưới 20 kg.

Lợn rừng thường có số con đẻ ra mỗi lứa thấp, từ 5 – tám con. Lợn con sơ sinh nhỏ, chỉ vài ba lạng một con. Lợn con thường được lợn mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc tới khi lợn mẹ mang thai lần kế thiếp. Thời gian này khéo khi kéo dài tới 3 – 4 tháng. Lợn rừng thường đẻ 1,2 – 1,3 lứa/năm. Nhưng nếu được thuần dưỡng và sớm tách đàn khi nuôi con, lợn rừng lại sinh sản rất mắn, khoảng 2 – 2,3 lứa/năm. Lợn rừng lúc động đực và phối giống xong, lúc mang thai có thể sống chung với bầy đàn cho đến lúc đẻ con, lúc gần đẻ sẽ tách bầy, làm tổ đẻ.

Phần lớn lợn làm tổ bằng cỏ và nhánh cây, tùy khả năng của nó kiếm được về đánh đống cao khoảng 1m, nó kiếm chỗ cao làm tổ. Lợn mẹ sẽ bò vào và bới khoanh rỗng giữa đống cỏ rồi đẻ con và nuôi con ở đây 4 tháng, cho đến lúc con lớn khỏe mạnh rồi mới đưa con vào nhập đàn cùng sinh sống bình thường như cũ. Lợn mẹ và con ở với nhau trong ổ hoặc gần ổ trong 4-6 ngày. Sau đó lợn mẹ và con sẽ quay lại đàn. Lợn con thường bú lẫn mẹ của chúng.

Tập tính

Lợn rừng châu Âu là loài ăn tạp, chúng ăn rất nhiều thứ bắt gặp trên đường đi

Lợn rừng là loài ăn tạp. Chúng ăn cỏ, rễ cây, hoa quả, sâu bọ và những động vật thân mềm khác. Vốn là giống vật du cư, chúng đi lại dọc ngang khắp châu Âu đại lục. Chỉ sau một đêm có thể di chuyển tới 30 cây số đường rừng. Tại miền Nam nước Pháp, lợn rừng di chuyển 2–15 km/đêm, mặc dù khu vực đó chỉ rộng từ 20 – 150 ha. Trong vòng 2-3 tháng lợn trưởng thành đi hết một diện tích 500-1.000; 1.000-2.000 ha; 500-5.000 ha theo thứ tự đối với lợn đực trưởng thành, cái trưởng thành và lợn hậu bị. Trong vòng 6 đến 12 tháng diện tích chúng đi có thể đến 10.000 ha. Nếu như có chỗ nào đó ưa thích trên đường đi, chúng có thể định cư lại đấy một tháng, một năm hay nhiều năm rồi thay đổi chỗ ở so với tất cả các giống vật vốn gắn bó với lối sống hoang dã[4].

Lợn rừng thường linh hoạt lúc sáng sớm và chiều muộn, và trở thành kẻ ăn đêm ở những vùng không yên tĩnh. Một ngày chúng dùng 4-8 tiếng để gặm cỏ và di chuyển đến vùng có thức ăn. Lúc ăn chúng thường ăn cả đàn. Lợn đực độc thân đôi lúc cũng tham gia sinh hoạt cùng với đàn, tại đây chúng phô trương sức mạnh của mình. Lợn đực thường là những con vật hoạt động lúc hoàng hôn, gặm cỏ từ chạng vạng tối tới rạng đông, có quảng nghỉ ngơi ban ngày và ban đêm. Cúng là những động vật ăn tạp, ăn tất cả những gì nơi chúng đi qua như cỏ, quả hạnh, quả mọng, xác chết, rể cây, củ quả, đồ thừa, sâu bọ giun dế và các loại bò sát nhỏ.

Phạm vi hoạt động có thể còn lớn hơn nếu con vật đó bị trục xuất khỏi đàn khiến nó phải bỏ đi lang thang. Một nghiên cứu tại châu Âu cho thấy chúng có thể đi xa tới 50–250 km. Ở lợn con, thói quen đào ủi bắt đầu có ngay sau một vài ngày đầu sau sinh. Cai sữa sau 3-4 tháng. Khoảng 2 tuần tuổi chúng bắt đầu ăn thức ăn cứng như giun dế và ấu trùng. Lúc đẻ lợn thường đi kiếm vạt đất nào đó kín khuất. Lợn bươi một hố sâu 5–10 cm. Sau đó chúng vơ rơm rác và cành cây chất xung quanh cao khoảng 1m. Hàng ngày chúng chỉ đi khỏi ổ để kiếm ăn. Chúng có khả năng cắp con về một chỗ khi con cái tản mạn.

Heo rừng thường không lùi bước trước bất kỳ vật cản nào trên đường đi, nó có thể chạy xuyên qua những nơi hiểm trở nhất khi bị săn đuổi, hoặc sẵn sàng nghênh chiến với chó săn trong tư thế lỳ lợm. Nếu bất chợt gặp một chú lợn giữa rừng sâu, đầu tiên nó sẽ đứng bất động ngước nhìn với ánh mắt thân thiện để tỏ tình bằng hữu, sau mới nhẹ nhàng tháo lui bằng những bước chạy ngắn cùng cái đuôi ngoe nguẩy. Nếu bị làm giật mình hay dồn vào góc, đặc biệt lợn cái đang cùng với con có thể bảo vệ nó và con của chúng với sức mạnh đáng kể. Lúc chuẩn bị đánh trả, lợn đực sẽ cúi đầu xuống và nhe răng nanh lên. Lợn cái thường tấn công bằng cách ngoạm, cắn. Những cú đánh của lợn thường không gây chết cho người, nhưng gây trọng thương khiến đối thủ tàn tật và mất máu.

Ở châu Âu chúng không quá hung hăng, Luật ở Đức chỉ cho phép loại bỏ lợn rừng khi nó gây hại. Lợn rừng châu Âu đôi khi cũng có vụ việc lợn rừng tấn công và làm bị thương 4 người ở Berlin, Đức. một con lợn rừng đã tấn công 4 người. Cả bốn nạn nhân đều bị thương. Nếu gặp một con lợn đơn độc vừa bị thương bởi đạn súng săn chẳng hạn, nó sẽ không ngần ngại lao vào tấn công với mục đích trả thù đồng loại của kẻ đã sát thương nó. Một khi đám heo con đang đứng trước nguy cơ gặp nạn thực sự, heo mẹ sẽ lao thẳng tới, sẵn sàng liều chết để cứu đàn con[4].

Liên quan